Tham luận Hội thảo “Định hướng và giải pháp phát triển VLXD Quảng
Nam”
PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG NGÀNH CÔNG
NGHIỆP VLXD
THEO HƯỚNG CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
Tiến sỹ Trần Văn Huynh
Chủ tịch Hội Vật liệu xây dựng Việt Nam
I. Vật liệu xây dựng là yếu tố trực tiếp tạo thành thực thể công
trình, vật liệu xây dựng là “lương thực” của ngành xây dựng
Vật liệu xây dựng thường chiếm đến 60%
giá trị trong chi phí xây dựng công trình. Giá trị sản lượng VLXD chiếm đến 7-
8% GDP nước ta, năm 2012 doanh thu của ngành công nghiệp VLXD đạt 190.000 tỷ
đồng, vì thế trong những năm qua Nhà nước ta rất quan tâm đầu tư phát triển
VLXD, đưa ngành công nghiệp VLXD đi trước một bước.
- Đến nay, ngành công nghiệp VLXD nước
ta đã được phát triển mạnh mẽ, không những về số lượng, cả về chất lượng, mặt
hàng, mẫu mã, mầu sắc luôn được đổi mới, đáp ứng đầy đủ nhu cầu xây dựng trong
nước, mà còn xuất khẩu ra nhiều nước trên thế giới với kim ngạch xuất khẩu năm
2012 đạt 1.135 triệu USD.
- Năng lực sản xuất đến năm 2013 của xi
măng là 70,39 triệu tấn, gạch ốp lát ceramic, granit, cotto là 435 triệu m2, sứ
vệ sinh 13,06 triệu sản phẩm, gạch đất sét nung là 22 tỷ viên, vật liệu không
nung 5,4 tỷ viên (trong đó gạch nhẹ AAC là 1,95 triệu m3 bằng 1,3 tỷ viên gạch
tiêu chuẩn), kính xây dựng 188 triệu m2, đá ốp lát 13 triệu m2, sơn 350 triệu
lít, tấm lợp amiang xi măng 106 triệu m2.
- Bên cạnh thành tích đạt được, ngành công
nghiệp VLXD nước ta còn nhiều bất cập, hạn chế, nhất là về trình độ công nghệ
không đồng đều, nhiều nhà máy có công nghệ, kỹ thuật còn lạc hậu, tiêu tốn
nhiều năng lượng, nguyên liệu, vật tư, năng suất lao động thấp, gây ô nhiễm môi
trường sinh thái, chi phí sản xuất cao, sản xuất, kinh doanh kém hiệu quả, năng
lực cạnh tranh thấp.
- Đầu tư ào ạt tràn lan theo phong trào,
không tuân thủ quy hoạch, không quan tâm đến cung cầu, không tính đầy đủ đến
nguồn tài nguyên, điều kiện vận tải, đến hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội.
- Bên cạnh sản phẩm chất lượng cao, mẫu
mã đẹp nhiều doanh nghiệp ít quan tâm đến đổi mới sản phẩm, đa dạng hóa sản
phẩm, sức cạnh tranh thấp.
- Nhiều doanh nghiệp chưa quan tâm đến
lợi ích cộng đồng, lợi ích kinh tế, xã hội, vùng, lợi ích lâu dài mà chỉ quan tâm đến lợi ích doanh nghiệp, lợi ích
trước mắt, không quan tâm đến phát triển bền vững của toàn ngành, toàn xã hội.
Qua cuộc khủng hoảng kinh tế, tài chính
lần này đã thể hiện nhiều doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, không đủ sức cạnh tranh
phải đóng cửa, dừng sản xuất hoặc sản xuất cầm chừng, sản xuất kinh doanh kém
hiệu quả phải sát nhập, tái cơ cấu, bán cho nước ngoài, thể hiện sự phát triển
không bền vững.
II. Phát triển bền vững theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa
1. Trước mắt cần xác định khái niệm về phát triển bền vững:
Là khái niệm trìu tượng không phải là sự
phát triển của một công ty, một ngành riêng biệt, mà là phát triển của toàn xã
hội và do vậy phải nhận thức như sự tiến hóa của toàn xã hội, mà doanh nghiệp,
ngành trở thành một bộ phận hữu cơ của bản thân sự phát triển đó, do đó các tổ
chức chính phủ, tổ chức quốc tế phải
tham gia tích cực, hỗ trợ quá trình phát triển.
Phát triển bền vững gắn liền với tăng
cường hiệu quả kinh tế, xã hội và môi trường, với kiến thức khoa học và công
nghệ. Phát triển bền vững gắn liền với
công bằng xã hội, bình đẳng, đáp ứng nhu cầu hiện tại nhưng không làm phương
hại cho các thế hệ mai sau.
2. Nội dung của phát triển bền vững:
Trách nhiệm đối với xã hội, trách nhiệm
đối với môi trường và sự phát triển kinh tế là ba yếu tố được coi là “ba trụ
cột” của phương châm phát triển bền vững hay nói một cách khác “phát triển bền
vững hài hòa ba lợi ích: kinh tế, xã hội và môi trường”, thể hiện qua 8 nội
dung then chốt, quan hệ chặt chẽ với ba trụ cột của phát triển bền vững đó là:
2.1. Hiệu suất sử dụng tài nguyên cao,
giảm tiêu hao nguyên liệu, tài nguyên hóa thạch, tài nguyên không tái tạo cần
phải tiết kiệm, bảo vệ tài nguyên cho xã hội, đem lại hiệu quả kinh tế cao.
2.2. Bảo vệ môi trường khí hậu, giảm
phát tán khí thải gây hiệu ứng nhà kính, tăng cường khả năng duy trì cơ cấu môi
trường toàn cầu vì lợi ích toàn xã hội, giảm thiệt hại kinh tế liên quan đến
biến đổi khí hậu.
2.3. Giảm chất thải công nghiệp, nông
nghiệp, dân sinh, cải thiện chất lượng nước, không khí, bảo vệ môi trường tự
nhiên, giảm thiểu bụi, độc hại, tác động bất lợi tới cộng động, cải thiện chất
lượng cuộc sống, từ đó giảm thiệt hại kinh tế cho toàn xã hội do ô nhiễm gây
ra.
2.4. Trách nhiệm đối với môi trường sinh
thái gắn với hiệu quả sử dụng đất, cải thiện, duy trì cảnh quan thiên nhiên và
hệ sinh thái, đa dạng sinh học cho các thế hệ mai sau.
2.5. Vì phúc lợi nhân viên, điều kiện
làm việc an toàn, văn minh, hiện đại, kích thích tinh thần làm việc, nâng cao
năng suất lao động, phát triển nghề nghiệp.
2.6. Về phúc lợi cộng đồng, tạo ra môi
trường tốt, kể cả tiếng ồn, mùi, độ rung động, bảo đảm an toàn khu vực, cải
thiện chất lượng cuộc sống cho cộng đồng, cho đội ngũ lao động địa phương.
2.7. Về sự phát triển vùng gắn liền lâu
dài với môi trường sinh thái, với cải thiện hạ tầng, tạo công ăn việc làm, tăng
trưởng kinh tế và mức sống của vùng.
2.8. Từ đó tạo ra giá trị cho doanh
nghiệp, tăng khả năng áp dụng công nghệ tiên tiến, kỹ thuật hiện đại, tăng
cường năng lực cạmh tranh của doanh nghiệp, cải thiện tình hình tài chính của
công ty, tăng đóng góp phúc lợi cho cộng đồng địa phương.
3. Một số giải pháp phát triển bền vững ngành công nghiệp VLXD
Việt Nam:
3.1. Đầu tư phát triển theo quy hoạch
trên cơ sở cân đối cung cầu thị trường trong nước, thị trường khu vực và thế
giới, trên cơ sở nguồn tài nguyên khoáng sản làm VLXD. Quy hoạch mang tính khoa
học, khách quan, hiện thực, thống nhất từ Trung ương đến địa phương, vì lợi ích
toàn ngành, toàn xã hội.
3.2. Khoa học công nghệ, động lực phát
triển bền vững, cần được khai thác triệt để để đổi mới công nghệ, nâng cao chất
lượng sản phẩm, cải tiến mặt hàng, sử dụng hiệu quả tài nguyên khoáng sản, bảo
vệ môi trường sinh thái, tiết kiệm năng lượng sử dụng phế thải công nghiệp,
tiết giảm chi phí sản xuất, năng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
3.3. Phát triển sản xuất và sử dụng VLXD
không nung đạt 40% vào năm 2020 thay thế gạch đất sét nung theo Quyết định
567/QĐ-TTg, ngày 28/4/2010 và Chỉ thị số 10/CT-TTg, ngày 16/4/2012 về việc
Tăng cường sử dụng vật liệu xây không nung và hạn chế sản xuất, sử dụng gạch
đất sét nung. Bảo vệ 4 triệu ha đất ruộng để bảo đảm an ninh lương thực, giảm
tiêu hao than, bảo vệ môi trường sinh thái cho cộng đồng, bảo vệ năng suất cây
trồng, vật nuôi, đồng thời sử dụng được tro bay, xỉ của các nhà máy nhiệt điện
đốt than theo Sơ đồ 7 phát triển điện lực Việt Nam theo Quyết định số 1208,
ngày 21/7/2011 của Thủ tướng Chính phủ, đến năm 2020 tổng công suất nhiệt điện
đốt than là 3.600 MW, tiêu thụ 67 triệu tấn than, thải ra 20 triệu tấn tro xỉ.
Năm 2030 công suất 7.100 MW thải ra 40 triệu tấn tro xỉ và khoảng 5 triệu tấn
SO2, nếu thu hồi tốt được 5 - 6 triệu tấn thạch cao phục vụ cho sản xuất xi
măng, vật liệu không nung. Đây là giải pháp hiệu quả, vững chắc để phát triển
bền vững, không những cho nước ta mà cả thế giới đang được sử dụng 70 - 80% là
vật liệu không nung, 20 - 30% gạch đất sét nung.
- Để thực hiện Thông tư 09/2012/TT-BXD
ngày 28/11/2012 của Bộ Xây dựng, các địa phương khẩn trương cho đầu tư các cơ
sở sản xuất vật liệu không nung xi măng
cốt liệu mạt đá, tro bay, xỉ, cát theo mô hình dây chuyền từ 2; 5; 10; 15; 20;
25; 35 triệu viên/ năm theo nhu cầu thị trường của địa phương mình, cương quyết
dẹp bỏ lò gạch thủ công, không đầu tư mới lò đứng cải tiến, lò Hoffmann cải
tiến, hạn chế đầu tư mới lò tuy nen.
- Phát triển sản xuất và sử dụng bê tông
khí chưng áp (gạch nhẹ AAC),được sản xuất từ cát nghiền mịn hoặc tro bay kết
hợp với xi măng, vôi, thạch cao, bột nhôm và nước, được chưng áp trong
Autoclave. Qua phản ứng hóa học tạo ra sản phẩm siêu nhẹ, có độ bền cao và
nhiều tính năng vượt trội, tỷ trọng khô từ 400 - 800 kg/m3, cường độ nén từ 3,5
- 7,5 Mpa, độ bền cao, cách âm tốt, giảm âm ≥ 48 db, cách nhiệt tốt do độ dẫn
nhiệt thấp 0,1529 W/m.k, chống cháy tốt, thi công dễ dàng, nhanh gấp 3 lần xây
gạch đất sét, ít tốn kém vữa xây, vữa trát; do vật liệu siêu nhẹ nên giảm tải
công trình, nhất là kết cấu móng (giảm 1/3). Là vật liệu mới đối với nước ta,
nhưng thế giới đã sử dụng gần 80 năm, kết cấu công trình vẫn bền vững. Theo
Quyết định 567, đến năm 2020 bê tông khí chưng áp sẽ chiếm 25% tổng lượng vật
liệu xây khong nung, khoảng 6 - 7 triệu m3.
3.4. Các nhà máy xi măng có công suất lò
nung từ 2.500 tấn clanhke/ngày trở lên đầu tư dây chuyền thu hồi khí thải nhiệt
độ cao của lò nung clanhke để phát điện, tiết kiệm 25% điện năng cho sản xuất
xi măng và giảm khí thải hiệu ứng nhà kính, giảm khí thải CO2 (do đốt than để phát điện), bảo vệ
môi trường sinh thái cho cộng đồng.
3.5. Triệt để sử dụng chất thải công
nghiệp, chất thải dân dụng để làm nhiên liệu, nguyên liệu sản xuất VLXD, tiết
kiệm chi phí sản xuất, bảo vệ môi trường sinh thái vì lợi ích doanh nghiệp, lợi
ích cộng đồng (thu hồi thạch cao từ khí thải, tro bay, xỉ than từ các nhà máy
nhiệt điện đốt than).
3.6. Chấn chỉnh công tác quản lý, tổ
chức khai thác tài nguyên khoáng sản nhằm tiết kiệm, bảo vệ tài nguyên, bảo vệ
môi trường sinh thái, vì lợi ích lâu dài cho muôn đời con cháu mai sau, vì lợi
ích cộng đồng. Áp dụng công nghệ khai thác bán lộ thiên, khai thác âm, tận thu
tài nguyên, hoàn thổ, bảo vệ cảnh quan thiên nhiên.
3.7. Thực hiện tái cấu trúc, hình thành
các tổ hợp sản xuất, kinh doanh VLXD có
đủ sức mạnh về tài chính, về đội ngũ, nắm bắt, làm chủ công nghệ tiến tiến, kỹ
thuật hiện đại, quản lý sản xuất kinh doanh hiện đại, hình thành các trung tâm
thương mại VLXD ở các vùng lãnh thổ, giao lưu trong nước, ngoài nước, không
những làm chủ thị trường trong nước mà còn tiến ra thị trường lớn có tiềm năng
lâu dài của khu vực và thế giới, tạo dựng thị trường VLXD sôi động phát triển
bền vững.
3.8. Để phát triển bền vững, cần có sự
hỗ trợ tích cực của các cơ quan quản lý Nhà nước từ Trung ương đến địa phương
trong việc ban hành cơ chế chính sách, quy hoạch phát triển đến triển khai thực
hiện, vì lợi ích cộng đồng, lợi ích lâu dài của quốc gia.
- Ban hành cơ chế chính sách kèm theo
chế tài thực hiện việc ưu đãi cho các doanh nghiệp sản xuất VLXD không nung,
vật liệu mới, sử dụng phế thải công nghiệp, phế thải dân dụng, phế thải nông
nghiệp, giảm thuế VAT từ 10% xuống 5%, ưu đãi cấp vốn tín dụng cho đầu tư sản
xuất, chế tạo thiết bị làm vật liệu xây không nung, vật liệu mới.
- Triển khai làm đường quốc lộ, tỉnh lộ,
đường cao tốc bằng bê tông xi măng, vừa kích thích tiêu thụ xi măng, không nhập
khẩu nhựa đường, vừa bảo đảm chất lượng đường bền vững lâu dài, tiết kiệm ngân
sách nhà nước vì sự phát triển bền vững,
vì lợi ích cộng đồng. Nhà nước có chính sách, chương trình sử dụng rộng rãi bê
tông xi măng, xây dựng kết cấu hạ tầng, kè sông kè biển, chống sạt lở, ứng phó
với biến đổi khí hậu.
III. Công nghiệp VLXD tỉnh Quảng Nam nhìn từ góc độ phát triển bền
vững
1. Quảng
Nam được đánh giá là một tỉnh giàu tài nguyên khoáng sản làm VLXD ở Trung bộ,
với trữ lượng đá xây dựng 50 - 60 tỷ m3, đá vôi xi măng 558 triệu tấn, đá ốp
lát nhiều loại màu sắc khác nhau, cát sỏi xây dựng phân bổ ở nhiều dòng sông,
cát trắng chất lượng tốt, hàm lượng SiO2 trên 95% với trữ lượng trên 300 triệu
m3, lại có các mỏ fenspat (trường thạch) trên 2,2 triệu m3 có thành phần kali
xếp loại I của nước ta, có cả mỏ cao lanh, mỏ laterit v.v…
Là tỉnh đông dân 1.435.000 người, trong
đó độ tuổi lao động trên 900.000 người, lực lượng lao động dồi dào. Là tỉnh
giàu tiềm năng để phát triển sản xuất VLXD: xi măng, kính xây dựng, gốm sứ xây
dựng, đá ốp lát, vật liệu không nung xi măng cốt liệu, vật liệu nhẹ AAC, cát
sỏi không chỉ cho thị trường của tỉnh mà còn cung cấp cho thị trường Đà Nẵng,
Quảng Ngãi, Bình Định, các tỉnh Tây Nguyên và xuất khẩu sang Lào.
2. Trong
những năm qua Quảng Nam đã nỗ lực đầu tư phát triển ngành công nghiệp VLXD, đã
đưa công nghiệp VLXD của tỉnh từ không đến có, từ nhỏ đến lớn, từ thủ công lạc
hậu đến hiện đại, thành quả đáng tự hào. Có nhà máy gạch ốp lát ceramic,
granite của Công ty Prime ở Đại Lộc với công suất 24 triệu m2/năm, lớn nhất với
8 dây chuyền được trang bị thiết bị hiện đại, sử dụng kỹ thuật số, cùng với
gạch granite Đồng Tâm ở Điện Ngọc, gạch ốp lát Anh Em Chu Lai, đưa tổng công
suất gạch ốp lát ceramic, granite của Quảng Nam lên 34 triệu m2/năm, chiếm 8%
công suất toàn quốc. Với Công ty kính nổi Chu Lai có công suất lớn nhất 800
tấn/ngày, 44 triệu m2 kính tiêu chuẩn/năm, 35 xí nghiệp gạch nung có công suất
600 triệu viên, gạch không nung 33 triệu viên chỉ bằng 5,5% (tỷ lệ quá thấp),
đá xây dựng có 22 doanh nghiệp với công suất 1.230.000 m3/năm. Xi măng đến nay
mới đầu tư với công nghệ trung bình v.v…
3. Một số giải pháp để phát triển bền vững ngành công nghiệp VLXD
tỉnh Quảng Nam
3.1. Dựa vào lợi thế tài nguyên khoáng
sản, về thị trường tiêu thụ VLXD trong khu vực, về nguồn lao động dồi dào, về
vị thế giao thông thuận lợi, tỉnh cần tập trung xây dựng quy hoạch phát triển
sản xuất kinh doanh VLXD theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Quy hoạch
mang tính khoa học, khách quan, hiện thực, chống duy ý chí, gắn chặt lợi ích
của địa phương với lợi ích toàn vùng, lợi ích toàn xã hội, lợi ích trước mắt
với lợi ích lâu dài. Quy hoạch là công cụ quản lý nhà nước theo Nghị định
124/2007/NĐCP của Thủ tướng Chính phủ thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh chịu trách
nhiệm quản lý nhà nước về công tác quy hoạch phát triển VLXD trên địa bàn, đến
nay có 51 tỉnh thành phố đã lập quy hoạch VLXD, còn 12 tỉnh chưa lập, trong đó
có Quảng Nam.
3.2. Khoa học công nghệ, động lực phát
triển bền vững cần được khai thác triệt để ứng dụng công nghệ tiên tiến, kỹ
thuật hiện đại vào sản xuất cho các xí nghiệp hiện tại và cho đầu tư các xí
nghiệp mới để giảm tiêu hao năng lượng, sử dụng hiệu quả tài nguyên khoáng sản,
bảo vệ môi trường sinh thái, sử dụng phế thải công nghiệp, tiết giảm chi phí
sản xuất, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
3.3. Về xi măng, với trữ lượng đá vôi
lớn của mỏ đá A-Sờ Đông Giang, chất lượng tốt nên đầu tư nhà máy xi măng có
công suất 3 triệu tấn xi măng/năm để cung cấp cho toàn vùng, với lò nung cỡ lớn
có công suất từ 4.000 tấn clanhke/ngày trở lên, sản xuất clanhke PC 50-60, với
công nghệ tiên tiến, kỹ thuật hiện đại, tiêu thụ điện cho 1 tấn xi măng < 90
KWh/tấn xi măng PCB 40, tiêu hao nhiên liệu ≤ 730 Kcal/kg clanhke, bụi khí thải
lò nung < 30 mg/Nm3.
Để tận dụng nguồn đá vôi của các mỏ nhỏ
mồ côi để đầu tư xây dựng một nhà máy sản xuất vôi công nghiệp hiện đại công
suất 200 - 400 tấn/ngày với một cặp lò đứng liên hoàn, tự động hóa, đồng bộ để
sản xuất vôi tôi chất lượng cao, phục vụ cho xây dựng hiện đại, sản xuất bê
tông nhẹ AAC.
3.4. Về gạch đất sét nung, hiện có 35 cơ
sở công suất 600 triệu viên, hầu hết sử dụng đất ruộng, cần phải rà soát lại,
loại bỏ các lò gạch sử dụng đất ruộng lúa, không đầu tư mới năng công suất lên
1.300 triệu viên vào năm 2015 (như dự báo). Thay vào đó, cần đầu tư phát triển
mạnh mẽ vật liệu xây không nung như Quyết định 567 của Thủ tướng Chính phủ.
Quảng Nam có lợi thế về nguyên liệu cát, mạt đá xây dựng thải ra khoảng 200.000
m3/năm. Có khả năng phát triển vật liệu không nung từ cốt liệu xi măng lên 200
- 300 triệu viên/năm và nên nghiên cứu để đầu tư một nhà máy sản xuất sản xuất
bê tông nhẹ khí chưng áp AAC có công suất 200.000 m3 vào giai đoạn 2015 - 2016
để cung cấp cho các tỉnh miền Trung. Đưa tổng công suất vật liệu xây không nung
chiếm 40 - 50% trên tổng số vật liệu xây vào năm 2020. Trước mắt đề nghị Tỉnh
chỉ đạo quyết liệt thực hiện Thông tư 09/2012/TT-BXD, ngày 28/11/2012 về việc
sử dụng vật liệu xây không nung trong các công trình xây dựng, tất cả các công
trình xây dựng được đầu tư bằng nguồn vốn Nhà nước bắt buộc phải sử dụng vật
liệu xây không nung, sử dụng tối thiểu 30% bê tông nhẹ AAC vào nhà cao tầng.
3.5. Về gốm sứ xây dựng hiện nay trong
phạm vi toàn quốc cung vượt cầu, không nên đầu tư mới, nên đầu tư chiều sâu
nâng cao trình độ công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, sản xuất mặt hàng
mới bằng công nghệ Nano, công nghệ in kỹ thuất số, nâng cao năng lực cạnh tranh
với hàng nhập khẩu, chiếm lĩnh thị trường trong nước và xuất khẩu.
3.6. Về thủy tinh xây dựng, nên nghiên
cứu đầu tư phát triển sản xuất các mặt hàng kính mầu, kính phản quang, kính
cường lực, kính Low-E, kính tấm lớn. Nên kêu gọi đầu tư một nhà máy sản xuất
Soda công suất khoảng 200.000 - 300.000 tấn/năm để phục vụ cho sản xuất thủy
tinh trong nước (hiện nay đang nhập khẩu).
Quảng Nam có tài nguyên cát trắng chất
lượng tốt, trữ lượng lớn nên quy hoạch đầu tư phát triển sản xuất công nghiệp
thủy tinh, không xuất khẩu cát trắng nguyên liệu, lãng phí tài nguyên.
3.7. Để tận dụng nguồn lao động dồi dào,
có tay nghề, Tỉnh cho phát triển cơ sở sản xuất đá chẻ, đá ốp lát, đá mỹ nghệ.
3.8. Về khai thác tài nguyên khoáng sản
làm VLXD ở Tỉnh ta còn nhiều bất cập. Việc cấp mỏ cho đơn vị, cá nhân chưa đúng
đối tượng, không đủ năng lực, thủ tục cấp mỏ còn nhiều phiền hà, nhũng nhiễu,
thời hạn cấp mỏ quá ngắn, khai thác đa số theo công nghệ lạc hậu, gây ô nhiễm
môi trường, lãng phí thất thoát tài nguyên. Nên quy hoạch lại khai thác tài
nguyên theo công nghệ hiện đại, đặc biệt khai thác cắt tầng, khai thác bán lộ
thiên, khai thác âm để tận thu tài nguyên, bảo vệ môi trường, đặc biệt là khu
vực các mỏ fenspat (tràng thạch) ở Đại Lộc, nên kêu gọi đầu tư một nhà máy sản
xuất frit, công suất 30.000 - 40.000 tấn/năm để cung cấp cho nhu cầu trong nước
và xuất khẩu.
Quảng Nam là tỉnh giàu tài nguyên khoáng
sản làm VLXD, lao động dồi dào, thị trường tiêu thụ khu vực rộng lớn, giao
thông vận tải thuận lợi, Tỉnh cần có quy hoạch, có chính sách thu hút đầu tư để
phát triển ngành công nghiệp VLXD tỉnh nhà theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, gắn kết phát triển công nghiệp VLXD với công nghiệp xây dựng, với hiện đại
hóa hạ tầng kỹ thuật, xây dựng nông thôn mới, tạo dựng thị trường VLXD sôi
động, bền vững.